Tuy nhiên, châu Mỹ đã và luôn tồn tại trước khi bị Columbus tìm ra. Ông ta vừa là một nhà khám phá vừa là một người mang chủ nghĩa thực dân và nô lệ đến nơi này, mở đầu cho quá trình loại bỏ người thổ dân bản địa.
Sau sự kiện Colombus năm 1492, người từ châu Âu tràn sang Tân thế giới với 3 động cơ chính: Của cải, vinh quang và truyền bá Thiên Chúa giáo, gọi tắt là 3G: Gold, Glory & God. Và từ đây người da đỏ đã dần mất đất sống, bị xua đuổi loại bỏ. Và đến ngày nay, chỉ có một số ít người thổ dân da đỏ tồn tại, sống trong cảnh bần cùng, đói nghèo và thất học.
Phải, người da đỏ chưa bị tuyệt chủng, nhưng sự biến mất hoàn toàn của các bộ tộc là hậu quả của cuộc loại bỏ tàn nhẫn trong quá khứ và thái độ kì thị của người da trắng duy trì cho đến ngày nay ở nước Mỹ của tự do dân chủ.
Ngày 04/07/1776, “Hợp chúng quốc Hoa Kỳ” chính thức được thành lập qua bản Tuyên ngôn Độc lập lừng lẫy trên cơ sở các ý tưởng khai sáng của chủ nghĩa tự do, tuyên bố xóa bỏ chế độ nô lệ, và “ai cũng có quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc.”
Và cũng bắt đầu từ thời điểm này nước Mỹ khoác lên mình chiếc áo lóng lánh hào quang gồm: Khai hóa văn minh, tiêu diệt cái ác và bảo vệ công lý.
Khai hóa văn minh
Sau khi vượt qua cuộc nội chiến, người Mỹ da trắng muốn chiếm lấy những mảnh đất màu mỡ nên bắt đầu tô vẽ và truyền bá rằng người thổ dân là “loài mọi rợ ăn thịt người”. Vậy là từ đó đến nay, bằng cách này hay cách khác, người Mỹ tìm cách tiêu diệt hết người bản xứ.
Theo David Stannard trong tác phẩm tựa đề Tàn sát ở Mỹ thì cho rằng cuộc càn quét sát hại người bản địa qua nhiều chiến dịch của người châu Âu và các thế hệ sau là một hành động diệt chủng khổng lồ nhất trong lịch sử nhân loại. Trong những cuộc chiến tranh này, quân đội Mỹ đã thực hiện nhiều cuộc tàn sát mà điển hình là cuộc tàn sát tại Wounded Knee, người Mỹ trắng đã sát hại khoảng 45.000 người da đỏ trong đó có nhiều đàn bà và trẻ em. Theo ước tính người da đỏ có vào khoảng 15 triệu khi người Tây phương bắt đầu xâm lược, chỉ còn lại chưa đầy 200 ngàn vào năm 1890 và cho đến ngày nay không biết còn lại bao nhiêu.
Sau hơn 240 năm lập quốc, thống kê cho thấy đã có 1 tỷ 400 triệu người vô tội đã bị chết bởi cái gọi là các giá trị của Tự do dân chủ Mỹ.
Tiêu diệt cái ác
Thông điệp này được thể hiện rõ ràng nhất trong thế chiến thứ II. Không thể phủ nhận rằng Nhật Bản thuộc về phe phát xít trong thế chiến, nhưng những gì người Mỹ đã làm còn kinh khủng hơn thế nhiều.
Trong trận Okinawa, người ta ước tính có ít nhất 12 ngàn phụ nữ Nhật bị lính Mỹ cưỡng hiếp và sát hại trong một chiến dịch kéo dài 3 tháng này. Thậm chí, chỉ trong 1 ngày đã có tới 2000 dân thường – xin nhấn mạnh là dân thường trong ngôi làng ở Katsuyama bị lính Mỹ giết và cưỡng hiếp.
Và đỉnh điểm là tổng thống Harry Truman hạ lệnh sử dụng bom nguyên tử, vào ngày 6 tháng 8 năm 1945, quả bom nguyên tử thứ nhất mang tên “Little Boy” đã được thả xuống thành phố Hiroshima, Nhật Bản.
Trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, đã có những vụ thảm sát kinh hoàng của quân đội Mỹ với người dân Triều Tiên, trong đó có vụ Thảm sát No Gun Ri (No Gun Ri Massacre) từng gây chấn động dư luận và bàng hoàng cả thế giới. Cũng trong thời gian này quân đội Mỹ đã sử dụng vũ khí sinh học bằng cách thả côn trùng gây bệnh cho người và lúa ở vùng quân đội Trung Quốc và Bắc Triều Tiên kiểm soát.
Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, ưới danh hào người tiêu diệt “cộng sản ma quỷ và hiếu chiến”, Mỹ đã gây ra nhiều vụ thảm sát dân thường, tra tấn, ném bom, rải chất độc da cam … tàn phá Việt Nam.
Người Mỹ bảo vệ công lý
Hầu như đời tổng thống nào của Mỹ cũng gây ra vài cuộc chiến tranh dưới danh nghĩa rất là văn minh: Giúp nhân dân thế giới có tự do dân chủ, lật đổ nền độc tài độc đảng. Và khi chiến tranh đi qua, tất cả chỉ còn lại đống đổ nát hoang tàn.
Chiến tranh là tang thương là chết chóc, là thảm họa của thế giới, là nỗi đau của nhân loại. Chẳng ai mong muốn nó xảy ra cả, trừ một nhóm người tinh hoa thích làm giầu trên xương máu nhân dân thế giới. Đó chính là các nhà tài phiệt sản xuất và buôn bán vũ khí của Mỹ.
Sau thế chiến thứ nhất, nước Mỹ kiếm được bộn tiền từ buôn bán vũ khí và vươn lên trở thành siêu cường. Nhưng 10 năm sau, nước Mỹ lâm vào khủng hoảng kinh tế khủng khiếp, tạm gọi là “Đại suy thoái” (1929 - 1933), bắt đầu từ “Ngày thứ Ba đen tối”.
Khi sản xuất thừa mứa, cung vượt quá cầu nhiều lần, những nhà kho đầy ắp hàng hóa. Các nhà máy sa thải hàng loạt nhân công. Nạn thất nghiệp bùng phát. Nước Mỹ lâm vào khủng hoảng. Thật may cho nước Mỹ, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và nhờ Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ mới có thể thoát khỏi cuộc đại khủng hoảng.
Sức cầu kinh tế thế giới đã tăng lên rất mạnh khi chiến tranh nổ ra ở Châu Âu, khi mà Mỹ vẫn chưa phải là một bên tham chiến trước năm 1942 đã cho phép nền công nghiệp Mỹ sản xuất một cách không giới hạn các phương tiện chiến tranh. Nước Mỹ đạt được sự thịnh vượng chưa từng có, vươn lên vị thế siêu cường số 1 thế giới. Tuy nhiên, những kẻ hưởng lợi nhiều nhất trong thời kỳ bùng nổ của nền kinh tế chiến tranh là các nhà đầu tư và các tổ hợp công nghiệp quân sự Mỹ.
Trong những năm chiến tranh thế giới, năng lực sản xuất của nước Mỹ đã tăng lên rất đáng kể. Nhưng một khi các sản phẩm ấy không có nguồn tiêu thụ thì sao? Người lao động lập tức đối mặt với việc bị sa thải khi hàng triệu cựu chiến binh trở về nhà và tìm kiếm một công việc dân sự. Kết quả là thất nghiệp, là giảm sức mua sẽ làm trầm trọng thêm sự suy giảm sức cầu.
Đầu tư của nhà nước cho lĩnh vực quân sự tạo điều kiện đem lại một nguồn lợi nhuận rất cao. Để giữ cho nguồn lợi nhuận đó, nước Mỹ buộc phải tìm ra kẻ thù mới, buộc phải gây chiến.
Thế là họ khơi lên cái gọi là Chiến tranh lạnh với Liên Xô, đường hoàng tiếp tục sản xuất vũ khí để “thị uy” và “chạy đua vũ trang” với Liên Xô. Và Cộng sản chính là đối tượng được họ chọn để làm nhân vật phản diện, vừa tiêu diệt kẻ thù vừa bán được vũ khí – thật là “nhất cử lưỡng tiện”.
Và Mỹ liên tục gây chiến khắp nơi. Chẳng những họ lập nên được chính quyền thân mình, thuận lợi cho công cuộc rút ruột tài nguyên và tiện tay bán vũ khí. Thế là xuất hiện Chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam, chiến tranh vùng vịnh, chiến tranh Nam Tư, chiến tranh Trung đông, chiến tranh Bắc Phi (mùa xuân Ả Rập) ... và mới nhất, rất có thể là Iran, Venezuela.
Sau sự sụp đổ của LB Soviet, thế giới quay lại với trạng thái đơn cực không hoàn toàn. Mỹ đã là bá chủ thế giới tuy nhiên chưa đủ mạnh để áp chế tất cả tuân theo luật chơi của mình. Mỹ cũng cần tiếp tục bán vũ khí, cũng cần có cái cớ để đàn áp và xâm lược, cướp bóc nhiều quốc gia khác trên thế giới.
Và nước Mỹ đã tạo ra “chủ nghĩa khủng bố”, những người Hồi giáo được gán mác cực đoan đã từng “đánh bom liều chết” khiến hàng chục người Mỹ, hàng trăm người P.Tây thiệt mạng. Thế rồi người ta lại quên đi hàng triệu người Hồi giáo khác đã chết thảm dưới bom đạn người Mỹ và đồng minh. Y như cái cách chúng nó bôi xấu Việt Nam và Chủ nghĩa cộng sản hơn nửa thế kỷ trước.
Xin trích lại quan điểm của André Vltchek, anh là một nhà phân tích chính trị, nhà báo và nhà làm phim người Mỹ gốc Liên Xô. Vltchek sinh ra ở Leningrad nhưng sau đó trở thành công dân Hoa Kỳ nhập tịch. Anh ấy đã sống ở Mỹ, Chile, Peru, Mexico, Việt Nam, Samoa và Indonesia ... và nhiều quốc gia khác. Trích.
“Và thế là phương Tây gắn chủ nghĩa khủng bố với Hồi giáo, một trong những nền văn hóa vĩ đại nhất trên trái đất, với 1,6 tỷ tín đồ. Hồi giáo đủ lớn và hùng mạnh để khiến các bà nội trợ trung lưu ở vùng ngoại ô phương Tây sợ vỡ mật! Thêm vào đó, đằng nào nó cũng cần phải bị kiềm chế, bởi vì về cơ bản nó quá mang tính xã hội chủ nghĩa và quá ôn hòa.
Vào thời điểm đó trong lịch sử, tất cả các nhà lãnh đạo thế tục và xã hội chủ nghĩa vĩ đại của các nước Hồi giáo, (như Iran, Indonesia và Ai Cập), đều đã bị phương Tây lật đổ, di sản của họ bị đập nát hoặc đơn giản là bị cấm đoán.
Để biến Hồi giáo thành một kẻ thù đáng giá, Đế Quốc trước hết phải cực đoan hóa và làm hư hỏng hàng sa số các phong trào và tổ chức Hồi giáo, sau đó tạo ra những loại mới, thường xuyên huấn luyện, vũ trang và tài trợ cho chúng, để chúng trông thực sự đủ đáng sợ.
Dĩ nhiên còn một lý do quan trọng khiến “chủ nghĩa khủng bố”, đặc biệt là “chủ nghĩa khủng bố” Hồi giáo, là tối cần thiết cho sự sống còn của các học thuyết phương Tây, chủ nghĩa ngoại lệ và sự chuyên chế toàn cầu; nó biện minh cho sự siêu việt tuyệt đối về văn hóa và đạo đức của phương Tây.
Trong mô tả của Mỹ và phương Tây, chủ nghĩa khủng bố có nhiều dạng và nhiều bộ mặt, nhưng khủng khiếp nhất là sự tàn bạo máu lạnh.
Chúng ta được yêu cầu tin rằng những kẻ khủng bố là những tên điên bệnh hoạn, chạy quanh với bom, súng máy và thắt lưng chất nổ. Đó là cách chúng ta được yêu cầu hình dung về chúng.
Nhiều kẻ để râu; hầu hết “trông giống người nước ngoài”, không phải da trắng, không phải phương Tây. Nói tóm lại, chúng là những kẻ đánh vợ, cưỡng hiếp trẻ em, những kẻ phá hủy các bức tượng Hy Lạp và La Mã.
Trên thực tế, trong chiến tranh lạnh có một số “kẻ khủng bố” trông giống người da trắng - những kẻ cánh tả thuộc về một vài nhóm cách mạng, ở Italy và đâu đó của Đông Âu. Nhưng chỉ đến bây giờ chúng ta mới được biết rằng những hành động khủng bố được gán cho họ thực sự do Đế Quốc gây ra, bởi vài chính quyền cánh hữu Châu Âu và mật vụ. Bạn hãy nhớ, chính các quốc gia NATO đã làm nổ tung những con tàu trong đường hầm, hoặc đánh bom toàn bộ các nhà ga...”
nguồn từ FB