Nếu như trong những thập kỷ trước đây, người bán dâm bị coi thường là những đối tượng gây ra tệ nạn xã hội cần phải bị xử nghiêm khắc thì giờ đây cái nhìn của xã hội đối với họ đã thay đổi cơ bản.
Trước kia người bán dâm bị bắt giam, đưa đi cải tạo “phục hồi nhân phẩm”, thì giờ chỉ bị xử phạt hành chính.
Vì thế quan điểm chấp nhận mại dâm là một “nghề” trong xã hội để quản lý chặt chẽ hay mại dâm là một tệ nạn bị cấm đoán với nhiều hệ lụy phát sinh vẫn là một câu hỏi chưa có câu trả lời.
Xu hướng xã hội
Trong khi nhiều nước vẫn xem mại dâm là bất hợp pháp thì hiện đã có gần trăm quốc gia và vùng lãnh đã chính thức ban hành luật và hợp pháp hóa mại dâm.
Ngay ở Việt Nam, bàn luận về vấn đề “nên hay không hợp pháp hóa mại dâm” đã nảy ra những tranh cãi nảy lửa.
Phe ủng hộ, bao gồm giáo sư Nguyễn Văn Thọ, “nhà sử học” Dương Trung Quốc cho rằng nên hợp pháp hóa mại dâm vì nhiều lẽ:
- Không cấm hoàn toàn được mại dâm thì nên hợp pháp hóa nó để quản lý. Nhu cầu tình dục của con người là bản năng tự nhiên, kiềm tỏa là việc làm phi lý.
- Ai cũng cần có nhân quyền, người ta có thể tự do làm bất kỳ điều gì với thân thể mình. Vậy nên họ cũng có quyền kinh doanh trên thân thể. Cần hợp pháp hóa để họ không phải chịu cái nhìn dè bĩu, hắt hủi và phải lén lút làm mại dâm.
- Các nước văn minh (Phần Lan, Thụy Điển, Hà Lan, Nhật Bản, Mỹ, Thái Lan ...) đều đã hợp pháp hóa mại dâm. Đã có các chế tài về chăm sóc sức khỏe, bảo hiểm, lương ... để đảm bảo quyền con người cho gái mại dâm.
- Mại dâm không còn thuộc phạm trù đạo đức, mà giá trị nhân văn cần được đề cao, là giải quyết cho người ta đỡ khổ hơn.
Cái được, cái mất trong việc hợp pháp hóa mại dâm ở Việt Nam.
1. Chúng ta phải chọn lựa giữa việc hợp pháp hóa mai dâm và hạnh phúc hôn nhân. Do Pháp luật Việt Nam đang bảo vệ hôn nhân gia đình, vì vậy một khi chấp nhận hợp pháp hóa mại dâm nó sẽ dẫn tới rất nhiều hề lụy phức tạp, nó trái ngược hẳn với truyền thống đạo đức văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Mại dâm muôn đời là con dao giết chết những giá trị gia đình truyền thống. Hợp pháp hóa mại dâm là mở đường cho những đối tượng lười lao động nhưng lại muốn kiếm tiền một cách dễ dàng.
Xem xét mọi khía cạnh, không thể công nhận mại dâm vì nó để lại các hệ lụy khôn lường về chính trị, đạo đức truyền thống, văn hoá dân tộc.
2. Không thể nói do nhu cầu tình dục là bản năng của con người mà luật pháp không được phép ngăn cấm. Chúng ta là con người, bao gồm phần con và phần người.
Hệ thống giáo dục giúp chúng ta nhận thức tốt xấu, đúng sai, nuôi dưỡng phần NGƯỜI. Và hệ thống luật pháp sinh ra là để kiềm tỏa bản năng dục vọng của phần CON.
Một số người khi nói đến tình dục là nói đến khoái lạc, coi nó là mục đích tự thân của tình dục. Đây là một quan niệm cực kỳ sai lầm. Mục đích căn bản nhất của hoạt động tình dục là để duy trì nòi giống.
Đối với giới động vật có phân chia giới tính, từ con tôm, con cua, con cá cho đến gà, vịt, chim, chóc, đến chó, mèo, bò, lợn, cho đến vượn, khỉ, đười ươi... và cho đến con người đều coi sinh sản và duy trì nòi giống là mục đích căn bản nhất của tình dục. Mỗi loài đều có cách quan hệ tình dục của riêng loài đó.
Còn khoái lạc chỉ là hiệu ứng thứ phát của tình dục. Nó sản sinh ra trong quá trình quan hệ tình dục.
Con người, trong quá trình trưởng thành từ vượn thành người đã dần dần ý thức được sự khoái lạc thông qua quan hệ tình dục và là động vật duy nhất trên trái đất có ý thức cao về khoái lạc tình dục.
Vậy nên, chỉ con người mới có tình yêu, và tình yêu là tiền đề của tình dục, nhưng không phải mục đích căn bản của tình dục.
Mặc dù tình yêu bắt đầu từ sự hấp dẫn nhưng không phải là sự hấp dẫn có tính bản năng như các loài vật mà là sự hấp dẫn được ý thức.
Vì thế mà trong hầu hết các trường hợp bị kích thích tinh dục thì chỉ có con người mới có thể quyết định việc có quan hệ tình dục hay không.
3. Nhiều người cho rằng việc hợp pháp hóa mại dâm, cấp giấy phép hành nghề, đình kỳ khám sức khỏe ... sẽ giúp dễ quản lý hoạt động mại dâm. Xin thưa, công tác quản lý các hoạt động mại dâm luôn vô cùng phức tạp.
Việc hợp pháp hóa mại dâm ngược lại sẽ làm gia tăng “mại dâm chui, gái đứng đường” không giấy phép (do gái bán dâm không muốn phải nộp thuế và bị quản lý), kéo theo đó là bạo lực đường phố và làm giả giấy phép.
Rốt cuộc lại sẽ tồn tại song song cả “mại dâm hợp pháp” lẫn “mại dâm bất hợp pháp”. Việc truy quét vẫn cứ phải tiến hành như trước trong khi việc quản lý càng rắc rối hơn (vì khó có thể xác minh gái mại dâm có hay không có giấy phép hành nghề, giấy phép đó là thật hay giả).
4. Nhiều người nói rằng các nước văn minh trên thế giới hợp pháp hóa mại dâm, nên Việt Nam cũng cần nên thế. Đây là quan điểm hoàn toàn sai lầm.
Mỹ, Nhật Bản, Thái Lan ... văn minh như nào tôi không cần biết, nhưng ở các quốc gia đó có rất nhiều tư tưởng lệch lạc và rất không phù hợp với xã hội Á Đông truyền thống. Và nên nhớ, một việc có thể đúng và phù hợp với quốc gia này chưa chắc đã đúng với quốc gia khác.
Thực tế năm 2012, dưới đề nghị của Mỹ và Nhật Bản, Liên Hiệp Quốc đã đưa ra đề nghị hợp pháp hóa mại dâm đến các nước châu Á, tuy nhiên Việt Nam chúng ta đã lập tức bác bỏ điều này.
Việc một nước Á Đông với nền tư tưởng nhân văn, nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc như Việt Nam chúng ta, nếu không biết gìn nét đẹp riêng của dân tộc thì sẽ là một việc làm hết sức nguy hiểm. Hợp pháp hóa mại dâm, nó là món quà trời ban cho các má mì nắm giữ các đường dây gái gọi.
Ngành công nghiệp tình dục phát triển, khả năng lúc đó còn nảy sinh ra các loại hình tội phạm tình dục biến tướng do cung - cầu như ấu dâm, buôn người, nô lệ tình dục ... chả hạn.
5. Đó là những hệ lụy khôn lường một khi công khai, hợp pháp hóa mại dâm. Nó làm phẩm giá con người bị chà đạp, làm băng hoại đạo đức xã hội, làm nên văn hóa cổ truyền lung lay và để lại nhiều hậu quả hết sức to lớn.
Cần phải hiểu, bản chất của một vụ mua/bán dâm không khác mấy so với một vụ cưỡng dâm bởi người bán không muốn quan hệ nhưng vẫn tỏ ra tự nguyện quan hệ tình dục vì được trả tiền.
Đây là điều chưa từng được ghi trong bất kỳ luật lệ nào nhưng về khoa học tình dục thì không thể phủ nhận. Cả hai bên đều giả tạo trong quan hệ tính giao, vậy nên nó làm sút giảm phẩm giá của con người.
Khi rào cản pháp lý biến mất, các rào cản xã hội và đạo đức cũng không còn. Việc hợp pháp hóa mại dâm giống như lời nhắn gửi tới thế hệ trẻ rằng phụ nữ là hàng hoá tình dục và mại dâm là trò đùa vô hại.
Việc hợp pháp hóa mại dâm ảnh hướng tới sự phát triển của phụ nữ nói chung. Bởi vì, nhiều khả năng những em gái đang ở tuổi đến trường, nhận thức chưa đầy đủ, đặc biệt các em gái thuộc các gia đình có kinh tế khó khăn, sớm xa rời sách vở, học hành… sẽ lựa chọn nghề này.
Hầu như gái bán dâm bản địa, khi áp lực quan điểm văn hóa đều cố gắng che dấu danh tính. Khi hợp pháp hóa mại dâm, hầu hết phụ nữ bán dâm sẽ không chủ ý làm việc này, thay vào đó, làm mại dâm thường là lựa chọn cuối cùng và duy nhất của phụ nữ.
Trừ số ít một số gái xinh sang chảnh cặp kè đại gia, hay một số ít người lười biếng nhưng muốn có tiền tiêu ... thì ta ko thèm xét tới ở đây. Đó là một sư băng hoại về đạo đức.
Kết luận
Những nhà tư tưởng học đang đòi hợp pháp hóa mại dâm, là đang đấu tranh cho lợi ích của 100 ngàn người Việt Nam (trai gái) bán dâm, chứ không hề vì quyền lợi của 100 triệu người dân Việt Nam.
Họ đang vì sự ích kỷ của chính bản thân họ mà tạo ra mầm mống suy đồi pháp lý, suy thoái đạo đức, suy vong giống nòi đối với dân tộc Việt Nam.
tổng hợp từ facebook.